Tiểu sử và học vấn Caroline Brady (nhà bác ngữ học)

Caroline Agnes Brady sinh ngày 3 tháng 10 năm 1905, tại Thiên Tân, Trung Quốc.[5][6][7][8] Cha của bà là Đại tá Lục quân Hoa Kỳ David John Brady, một kỹ sư; ông là tổng giám đốc Công ty Kỹ thuật và Khai thác mỏ Trung Quốc ở Tần Hoàng Đảo. Mẹ bà là (Annie Lucy) Maudie Short, con gái của phó lục sự toà án Sherbrooke, Québec.[lower-alpha 1][9][11][16][17] Hai người làm lễ cưới một năm trước đó, tại Nhà thờ Chúa Ba Ngôi ở Thượng Hải.[11][12] Caroline có một người em gái kém mười tuổi, tên là Frances Maud Brady.[16][18] Ông David John là con của những người Anh di cư,[19] sinh ra và lớn lên ở Austin, Texas, nhưng rời khỏi đây để phục vụ cho quân đội.[20][21] Hai người anh em của ông (chú bác của Caroline), John W.Will P., đều là những luật sư và luật gia nổi tiếng của vùng Texas.[22][23] Will P. Brady là công tố viên đầu tiên của quận Reeves, Texas,[24] và sau này trở thành thẩm phán toà án quận ở El Paso.[23] John W. Brady thì trở nên nổi tiếng khắp vùng Austin nói riêng, và Texas nói chung, nhờ vai trò trợ lý tổng chưởng lý và thẩm phán; tuy nhiên, năm 1929, ông giết tình nhân của mình và phải chịu án ba năm tù.[22] Tổ tiên năm đời của Caroline Brady bên nhà ngoại là Anthony Van Egmond, một trong những người đầu tiên đến định cư ở Canada.[14][15] Ông tự nhận mình thuộc dòng dõi trực hệ của các bá tước nhà Egmond, nhưng đến khoảng những năm 1950, người ta mới biết thực ra ông là Antonij Jacobi Willem Gijben, một người Hà Lan lánh nạn.[25]

Tháng 5 năm 1910, khi Brady lên bốn, gia đình bà chuyển từ Thượng Hải đến Los Angeles, California bằng tàu hơi nước Bessie Dollar.[26] Chuyến đi chỉ gồm hai gia đình, một phụ nữ đi lẻ và một thùng lớn chứa gang thỏi, nhưng là "một hành trình đầy gian khó băng qua Thái Bình Dương" (theo lời báo Los Angeles Herald): con tàu đụng phải cá voi.[lower-alpha 2][26] Cuối năm đó, nhà Brady sống ở British Columbia.[7] Dù tờ Herald viết rằng ông Brady là kỹ sư của Standard Oil,[26] đến cuối Thế chiến thứ nhất, ông đang phục vụ cho Sư đoàn Bộ binh 42 (Đội Cầu vồng) của Đội Cảnh vệ Quốc gia Hoa Kỳ ở hải ngoại,[28] tại Pháp và Đức, với quân hàm đại uý rồi sau đó là thiếu tá.[20][21] Trong thời gian này, cho đến khoảng tháng 9 năm 1919, gia đình Caroline Brady ở cùng với người bác John W. trong ngôi nhà lớn của ông ở Austin.[19][20][21][28] Khoảng tháng 8 hoặc tháng 9 năm 1919, David Brady trở về,[21][28] và cùng làm việc cho Tập đoàn Sunshine Oil có trụ sở ở Los Angeles cùng người em Will.[29]

Ảnh Brady, lấy từ cuốn niên giám năm 1928 của Đại học California, Los Angeles

Tháng 8 năm 1924, Brady trúng tuyển vào Đại học California tại Los Angeles (UCLA), khi đó là Chi nhánh phía Nam của Đại học California.[30] Bà vào trường Cao đẳng Sư phạm, khoa giáo dục tiểu học và mầm non.[30] Ở UCLA, Brady tích cực tham gia nhiều tổ chức, như Beta Phi Alpha, YWCA (Young Women's Christian Association – Hội Nữ thanh niên Cơ Đốc giáo), và là chủ tịch Hội Prytanean.[30] Bà tốt nghiệp bằng Cử nhân Nghệ thuật khoa tiếng Anh vào năm 1928,[31][32] và nhận bằng Thạc sĩ Nghệ thuật từ chi nhánh của trường tại Berkeley hai năm sau đó, vào ngày 15 tháng 5 năm 1930.[6][33] Cùng năm đó và cũng tại Berkeley, bà bắt đầu học Tiến sĩ;[34] năm 1935, bà bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp The Legends of Ermanaric.[35][36][37] Người đứng đầu nhóm giảng viên phản biện, Arthur Gilchrist Brodeur, về sau là đồng tác giả với Brady trong một bài viết vào năm 1940.[38]

Tên

Chương trình Bài kiểm tra Cuối cùng cho Bằng Tiến sĩ của Caroline Agnes von Egmont Brady (1935)

Đôi khi, Brady còn được gọi là Caroline Agnes Von Egmont Brady.[35][39][40] Dù những tác phẩm đã xuất bản của bà thường ghi tên bà là "Caroline A. Brady" hoặc "Caroline Brady", chương trình bảo vệ luận án ghi tên bà là "Caroline Agnes Von Egmont Brady".[35] Một số danh sách thành viên và khoản mục thư viện thuộc Hiệp hội Ngôn ngữ Hiện đại cũng dùng cái tên dài hơn này.[39][40]